Một xét nghiệm máu đơn giản có thể giúp loại trừ ung thư phổi?
Hàng năm, các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ở Hoa Kỳ phát hiện hơn 1,6 triệu khối u ở phổi của bệnh nhân. Nhiều trong số chúng “vô tình được phát hiện”, có nghĩa là chúng được tìm thấy trong quá trình đánh giá một nguyên nhân khác không liên quan (ví dụ chụp X-quang ngực cho một người sau khi té ngã). Mặc dù 75-85% khối u được phát hiện tình cờ là lành tính, chúng có thể gây khó khăn trong việc chẩn đoán.

Những khối u có nguy cơ cao (ác tính) có thể cần thiết phải thực hiện các test xâm lấn hơn như sinh thiết hoặc thậm chí phẫu thuật cắt bỏ. Tuy nhiên, khi xác suất ung thư từ thấp đến trung bình – trong khoảng 5 đến 65 phần trăm – vẫn còn nhiều tranh luận về những ai nên được theo dõi bằng PET hoặc CT scan định kỳ và những ai nên được thực hiện những test chẩn đoán phức tạp.
Gần đây, các nhà nghiên cứu tại Đại học Y khoa Nam Carolina (MUSC) đã tham gia vào một thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm để đánh giá độ chính xác của xét nghiệm máu, hay “biomarker” (chỉ dấu sinh học), đo lường nồng độ 2 loại protein LG3BP và C163A trong huyết tương của bệnh nhân, tích hợp với các chỉ dấu lâm sàng của bệnh ung thư, chẳng hạn như tuổi, kích thước của khối u và các đặc điểm khác của khối u. Những protein này là những chỉ dấu tiên đoán thường gặp trong ung thư phổi. Trong nghiên cứu này, chỉ dấu sinh học có hiệu quả 98% trong việc phân biệt các khối u lành tính với ác tính.
Gerard A. Silvestri, M.D., M.S., một chuyên gia ung thư phổi ở Trung tâm Ung thư MUSC Hollings, chủ tịch quỹ George C. và Margaret M. Hillenbrand trong lĩnh vực ung thư vùng ngực, dẫn đầu cuộc nghiên cứu. Các kết quả được báo cáo trong một bài báo đăng trên tạp chí Chest vào ngày 1 tháng 3 năm 2018.
Các chỉ dấu sinh học hoạt động như sau: Nếu bệnh nhân có ít hơn 50 phần trăm cơ hội bị ung thư và kết quả xét nghiệm là âm tính cho phân loại tích hợp, nhiểu khả năng nó không phải là ung thư. Chỉ dấu sinh học này có thể giúp các bác sĩ tự tin ra kế hoạch chẩn đoán và điều trị.
Silvestri cho biết: “Nó được xem như là một test ‘loại trừ’ đối với những người có nguy cơ từ thấp đến vừa”. “Chỉ dấu sinh học này là một công cụ giúp tính toán nguy cơ chung của ung thư và giúp đưa ra cho bệnh nhân các khuyến cáo và lựa chọn. Nó có thể giúp xếp loại từ nguy cơ không xác định sang thành nguy cơ thấp – mà không phải trải qua các thủ thuật xâm lấn và tiềm ẩn nguy cơ.”
Sinh thiết và phẫu thuật là một thủ thuật phức tạp trong một cơ quan tinh tế như phổi.

“Hãy tưởng tượng phổi của bạn như một chai soda hai lít, và cái khối u như hạt đậu ở trung tâm của nó”, Silvestri giải thích. “Trong lúc sinh thiết, phổi có thể bị xẹp và cần phải có một ống thông giúp nó nở ra. Mục tiêu của chỉ dấu sinh học này là giúp tính toán nguy cơ ung thư, đưa ra cho bệnh nhân các lựa chọn và khuyến cáo, tránh khiến bệnh nhân bệnh lành tính phải trải qua các thủ thuật xâm nhập, đắt tiền, và không cần thiết.”
Ngay cả khi kết quả chỉ dấu sinh học là âm tính, bệnh nhân sẽ cần chụp CT scan để theo dõi khối u phổi. “Khối u nguy cơ thấp sẽ được theo dõi định kỳ bằng kỹ thuật hình ảnh. Sau hai năm chụp CT scan định kỳ và không thấy bằng chứng khối u phát triển, chúng ta có thể nói nó lành tính”, Silvestri cho biết.
Nghiên cứu này là một phần trong nghiên cứu Pulmonary Nodule Plasma Proteomic Classifier (PANOPTIC), một thử nghiệm lâm sàng 685 bệnh nhân từ 40 tuổi trở lên, với các khối u phổi mới phát hiện (dưới 60 ngày) có đường kính từ 8 đến 30mm trên CT scan.
Nếu kết quả chỉ dấu sinh học trong nghiên cứu PANOTIC đã được sử dụng để hướng dẫn chẩn đoán điều trị (trên thực tế thì không), thì sẽ giảm được 40% thủ thuật thực hiện ở những bệnh nhân có khối u lành tính. Bước tiếp theo để đưa thử nghiệm này tới thực hành lâm sàng là tiến hành một nghiên cứu “lợi ích lâm sàng” cho thấy cách sử dụng chỉ dấu sinh học này có thể ảnh hưởng đến hành vi của bác sĩ và bệnh nhân.

Sinh thiết phổi
“Bất cứ điều gì có thể giúp bác sĩ sự tự tin hơn trong cách họ quản lý bệnh nhân đều sẽ có ích”, Silvestri cho biết. “Mục tiêu của nghiên cứu này và các nghiên cứu khác tương tự như thế là đánh gi và điều trị nhanh chóng bệnh nhân có các khối u ung thư, trong khi không bao giờ khiến bệnh nhân không bị ung thư phải thực hiện các thủ thuật xâm lấn tốn kém và đôi khi rủi ro.”